Đức Minh Trí sanh năm Bính Tuất (1886) tại xã Tân Mỹ, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc. Tộc danh của Ngài là Nguyễn Văn Bồng, thứ bảy, con của Đức Ông Nguyễn Văn Bình và Đức Bà Nguyễn Thị An.
TỘC DANH VÀ THUỞ THIẾU THỜI
Thuở nhỏ mồ côi cha mẹ, nhờ Bà chị nuôi dưỡng và cho học chữ Nho trong làng.
Năm 19 tuổi (1905–Ất Tỵ), vâng lịnh tỷ huynh thành lập gia đình.
Năm 25 tuổi (1911–Tân Hợi), Ngài thừa Nho hoá y, dùng Y đạo để cứu nhơn độ thế, thể theo Y phương minh của nhà Phật.
Năm 29 tuổi (1915–Ất Mẹo), Ngài ly gia cắt ái chu du khắp nơi. Trải qua bao tang thương biến đổi, với kinh nghiệm bản thân Ngài khoát nhiên đại ngộ.
SÁNG LẬP LỤC PHƯƠNG TÔNG
Khi ấy Ngài nhận xét rằng, Đạo Phật quá cao sâu mầu nhiệm, các chùa chỉ lo tụng đọc, dân gian chưa biết Đạo Phật là gì, bỗng dưng ta đem đạo pháp tối thượng ra dạy, thế nào cũng thất bại. Chính mình trước tiên cũng nhờ pháp môn Lễ Bái Lục Phương. Trong buổi đầu mở Đạo, ta cũng phải dùng pháp môn nầy chớ không thể làm khác được. Ngài bèn đem pháp môn Lễ Bái Lục Phương để lập một tông phái gọi là Lục Phương Tông để truyền bá cho người đời tu học.
Năm 33 tuổi (1919 – Kỷ Mùi), Ngài an trí thê nhi, ly gia cắt ái, mượn nghề y đi đó đây, trước là cứu đồng bào, sau nữa, truyền bá giáo lý Lễ Bái Lục Phương. Có khi Ngài lại mượn nghề buôn chiếu bán khoai để tiện bề ngao du khắp nơi.
Thuở ấy (năm 1921 – Tân Dậu), tại Hậu Giang (Bạc Liêu) người ta truyền nhau rằng: Có Đạo Di Đà mới ra đời, trong Đạo nầy có ông thầy thuốc Bắc hay lắm, trị đâu mạnh đó. Ông không nhận tiền bạc của ai cả, chỉ trừ kẻ giàu có ; nhưng Ông cũng không thọ lãnh tiền bạc cho nhiều như các thầy khác.
Thật ra thì Ngài truyền bá đạo Phật mà không ai hiểu: Bằng cớ là đệ tử của Ngài lúc ấy chuyên lo trì niệm Lục tự Di Đà và lạy Lục phương. Trong thời kỳ nầy, những người tu hành theo pháp môn Lễ Bái Lục Phương, vì sợ bị Tây bắt, nên ai nấy đều lạy Phật, công phu ở trong mùng, lối xóm không hề biết được. (Thời kỳ đó chưa có các Hội Phật học).
THÀNH LẬP GIÁO HỘI TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI
Kể từ năm 34 đến 46 tuổi (1920-1932, Canh Thân – Nhâm Thân), tín đồ của Ngài rất đông đảo, tỉnh nào cũng có, làng mạc nào cũng đông, đủ sức thành lập một Giáo hội Phật giáo. Hơn nữa, kể từ năm 1930 (Canh Ngọ), các Hội Phật học lần lượt ra đời, đó là một cơ duyên Phật pháp hiếm có vậy.
Năm 47 tuổi (1933 – Quí Dậu), Ngài trở lại Chợ Lớn bàn tính với các đệ tử của Ngài, phần đông là công tư chức, thương gia, … lo thảo điều lệ và danh sách Ban Sáng lập, nhứt là phải có chỗ nơi làm Hội quán, rồi gởi đơn tới chánh phủ Pháp (nhà đương cuộc thuở đó), xin thành lập Giáo hội Phật giáo mệnh danh là Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội (lúc đầu chưa có hai chữ Việt Nam).
Năm 48 tuổi (1934 – Giáp Tuất), giấy phép thành lập Giáo hội đã ban hành, ngày chuẩn phê là 20-2-1934, Đức Minh Trí phải lên Chợ Lớn nhiều lần để bàn tính công việc xây cất Hội quán mới, trả Hội quán cũ là chùa Hưng Long cho nguyên chủ (chỉ bàn tính chớ chưa có đất).
Cũng năm nầy (1934), Đại hội bất thường nhóm tại chùa Hưng Long ngày 25-7-1934, dưới sự chủ toạ của Đức Minh Trí. Toàn thể Đại hội quyết suy tôn Đức Minh Trí làm Tông Sư, bậc lãnh đạo tối cao của Giáo hội, bậc hướng dẫn toàn quốc Hội viên, Thiện tín trên con đường tu học Phật pháp.
Cũng năm 48 tuổi (Giáp Tuất), ngày 30-7-1934, Giáo hội được sự phê chuẩn của chánh phủ Pháp, chấp thuận cho Đức Tông Sư Minh Trí, hiệp cùng phái đoàn Trung ương đi khắp lục tỉnh để phát phái quy y.
Cũng năm 1934, đệ tử của Ngài là bà Quách Thị Mười, điền chủ tại Phú Định hiến đất cất Hội quán Trung ương.
Năm 49 tuổi (1935 – Ất Hợi), Ngài trở lên Chợ Lớn, vào Phú Định để chứng kiến gác đòn dông Hội quán Trung ương đã kiến thiết mấy tháng qua.
Năm 50 tuổi (1936 – Bính Tý), Ngài bàn tính với Ban Trị sự Trung ương lo giấy phép xin xuất bản tờ tạp chí Pháp Âm Phật học làm cơ quan cho Giáo hội trong sự truyền giáo.
Năm 51 tuổi (1937 – Đinh Sửu), tờ Nguyệt san Pháp Âm Phật Học ra đời. Số 1 xuất bản nhằm tháng giêng dương lịch năm 1937.
Năm 60 tuổi (1946 – Bính Tuất), Đức Tông Sư Minh Trí rời gia cư tại làng Tân Mỹ, ra chợ Sa Đéc bằng chiếc ghe lòng, có chở theo chút ít đồ tế nhuyễn để tản cư, bởi lúc đó tình hình thời cuộc bất an.
Năm 61 tuổi (1947 – Đinh Hợi), Ngài rời Sa Đéc, thiên cư lên Sài Gòn, vì tình hình tỉnh thành cũng chẳng an. Chính năm nầy, trong ngày mùng 7 tháng tư âm lịch, Ngài có đi vô Phú Định dự lễ Đại hội thường niên.
Năm 62 tuổi (1948 – Mậu Tý), Hội quán Tân Hưng Long Tự tại Phú Định bị hoả hoạn thiêu huỷ. Ngài bàn tính với ông Hội trưởng Lê Văn Hơn, dời văn phòng, tạm làm việc Giáo hội tại nhà của ông Hơn, sau sẽ lo xây cất Hội quán tại Chợ Lớn.
Năm 63 tuổi (1949 – Kỷ Sửu), Giáo hội đã xây cất xong Hội quán Trung ương Tân Hưng Long Tự (quận 10, Chợ Lớn). Từ đây công việc của Giáo hội Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội rất bề bộn. Một mặt thì lo tiếp tục xây cất Đông, Tây lang, một mặt thì lo khai trương Phòng thuốc Nam Phước thiện khắp lục tỉnh.
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TU HỌC CỦA TÍN ĐỒ
Năm 64 tuổi (1950 – Canh Dần), Ngài nâng cao trình độ tu học của toàn thể Hội viên, Thiện tín bằng cách triển khai tôn chỉ Phước Huệ Song Tu, giản chính việc lạy sáu hướng, chỉ còn lạy một hướng vào bàn Phật nơi chánh điện mà thôi.
Năm 65 tuổi (1951 – Tân Mão), sẵn dịp tái bản quyển Phu Thê Ngôn Luận, Ngài cho đăng quyết nghị của Ban Trị sự Trung ương sau đây:
Do quyết nghị của Ban Trị sự Trung ương, thể theo tôn ý của Đức Tông Sư Minh Trí, cải cách việc hành lễ như dưới đây:
“Các cuộc lễ cúng nơi chánh điện, hướng vào bàn Phật lạy 24 lạy. Khi xá thì xá phía trong trước, rồi xoay ra xá phía ngoài, trở lại xá vào phía trong một lần nữa là đủ lễ.”
Khi ấy, tôi có thưa rằng: “Bạch Thầy, như lịnh nầy ban hành, thì vấn đề thành lập Lục Phương Tông làm sao đứng vững được?”
Ngài trả lời rằng: “Dù Đời hay Đạo, không có cái gì bằng danh chánh ngôn thuận. Giáo hội của chúng ta đã có danh nghĩa Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội, tại sao ta không dùng danh nghĩa đó cho danh chánh ngôn thuận? Nếu lấy danh nghĩa Tịnh Độ, thì chúng ta thuộc về Tông Tịnh Độ rồi, còn lập ra Lục Phương Tông làm chi cho phiền phức, để rồi rước lấy cái danh không chánh, cái ngôn không thuận.”
Ngài nói tiếp: “Vả lại, xưa kia Đức Thế Tôn cũng tùy duyên hóa độ, ngày nay chúng ta cũng thế. Pháp môn Lễ Bái Lục Phương là giai đoạn truyền giáo buổi ban đầu cho kẻ sơ cơ. Ngày nay, Giáo hội cần phải hướng dẫn Hội viên, Thiện tín bước lên một bước nữa mới mong tu học Giáo lý Đại thừa được. Nếu ở đó chấp mắc những cái gì đã và đang tu học, làm sao tiến lên bậc cao. Như vậy có khác nào người leo thang, chẳng chịu rời bỏ những nấc ban đầu, làm thế nào tiến lên nấc khác cao hơn?…”
Năm 70 tuổi (1956 – Bính Thân), Ngài ban hành Nội qui Ban Đạo Đức. Lúc đó nhằm ngày 26-10 năm Bính Thân (28-11-1956). Ngài ký tên đóng dấu vào bản Nội qui và dặn ông Phó Giảng sư Thái Văn Mít hãy đi cùng lục tỉnh truyền rao lời của Ngài khuyến nhủ rằng: “Toàn thể Hội viên, Thiện tín, toàn thể các Ban, dù là Ban Trị sự đi nữa, cũng phải cố gắng học tập Đạo Đức…”
Cũng năm Bính Thân trên đây, nhằm ngày mùng sáu tháng chạp âm lịch (6-1-1957), bữa đó nhằm ngày chủ nhật, Ban Đạo Đức có nhóm thường lệ hàng tuần. Trong lúc tôi đang sửa soạn giảng cho Học viên nghe, bỗng dưng Đức Minh Trí giáng lâm, Ngài đi ngay lại giảng đường.
Khi ấy, Ngài giảng giải phân minh hai tiếng Đạo Đức, chính lúc ấy tôi ghi chép những lời vàng ngọc của Ngài và đưa qua Ban Trị sự để xuất bản. Nguyên nhân quyển Đạo Đức xuất bản là như thế.
Năm 71 tuổi (1957 – Đinh Dậu), Ngài đi khắp lục tỉnh để giã từ mà không ai biết. Năm ấy, tại Bạc Liêu, Ngài chọn thêm được 2 vị Phó Giảng sư, 3 vị Huấn viên và một số Hội viên Ban Đạo Đức.
BAN HÀNH HUẤN TỪ, LẤY PHƯỚC HUỆ SONG TU LÀM TÔN CHỈ
Năm 72 tuổi (1958 – Mậu Tuất), ngày Đại hội mùng 8 tháng 4 âm lịch, Ngài ban hành Huấn Từ để làm tờ chúc ngôn, nhắn nhủ lần chót.
Khuya ngày 22, rạng mặt 23 tháng 8 âm lịch niên Mậu Tuất (1958), đúng 11 giờ, Ngài viên tịch, thọ 73 tuổi (theo âm lịch). Tính lại theo dương lịch thì 1886-1958.
Lễ an táng nhằm ngày 30 tháng 8 niên Mậu Tuất tại Phú Định (Chợ Lớn).
Từ bi Sư phụ độ Ta-bà,
Dìu dắt âm dương trẻ đến già.
Tỏ thấu máy linh nhờ chỉ dạy,
Phép mầu huyền diệu có chi hơn.
Hẳn biết Chí tôn là Đạo đức,
Tam giáo nguyên lai hiệp một nhà.
Sau đặng tiêu diêu miền Cực-lạc,
Đền ơn nghĩa Thầy nguyện chẳng quên.